Thực tế là các nguồn tài nguyên kỹ thuật số, thay đổi bối cảnh
giáo dục và công nghệ, đang thay đổi cách dạy học truyền thống, từ việc lựa
chọn giáo viên, thời gian làm chủ chương trình giáo dục và kết thúc bằng các
hình thức và phương pháp hoạt động sư phạm. Các công nghệ mới (thiết bị và cảm
biến “thông minh” điện tử, tài nguyên đám mây, v.v.) giúp chúng ta có thể nhìn
nhận lại quy trình và phương pháp giảng dạy theo hướng tăng hiệu quả giảng dạy.
Có thể coi đại học số như một bước tiến hiển nhiên và hiệu quả cho sự đổi mới
mà các trường đại học có thể triển khai trong xu thế chung của xã hội và thế
giới.
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có nhiều trường đại học triển
khai nền tảng đại học số, bản chất việc xây dựng đại học số sẽ yêu cầu cao hơn
về sự phát triển cơ sở dữ liệu, quản lí và tương giác giữa trường với giáo
viên, sinh viên. Hiện nay trên thế giới đã có một số trường đại học xây dựng
nền tảng đại học số như: Đại học Cambridge là một điển hình triển khai nền tảng
đại học số tại Vương quốc Anh cũng như Châu Âu. Nền tảng đại học số của trường
đại học Cambridge cung cấp 4 tính năng chủ yếu cho sinh viên, đó là
BlinkLearning, Cambridge One, Cambridge tại nhà và nền tảng giáo viên
Cambridge.
Gần đây nhất, có thể kể đến nền tảng đại học số của trường Kerala.
Kerala là Đại học Khoa học Kỹ thuật số, Đổi mới và Công nghệ hay còn được gọi là
đại học kỹ thuật số Kerala (Digital University Kerala - DUK). Tiền thân của
trường đại học số Kerala là Viện Quản lý và Công nghệ Thông tin Ấn Độ-Kerala
(Indian Institute of Information Technology and Management-Kerala – (IIITM-K)),
là một cơ sở giáo dục hàng đầu tự trị do Chính phủ Kerala thành lập vào năm
2000. Toàn bộ quy mô của trường được xây dựng, quản trị và giáo dục trên nền
tảng đại học số Kerala, nơi có thể đón nhận sinh viên, nghiên cứu sinh, giảng
viên và các học giả từ nhiều nơi trên thế giới trong các lĩnh vực như kỹ thuật
dữ liệu, máy học, bảo mật dữ liệu, trí tuệ dữ liệu công nghệ blockchain, …
Tại Việt Nam, thực chất đã nhiều trường phát triển các cổng thông
tin đào tạo E-Learning như đại học Văn Lang, đại học Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh,
học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông tập trung chủ yếu vào vấn đề giảng dạy
trực tuyến. Các mô hình nền tảng đại học số mới ở mức thí điểm, chưa có chủ
trương cụ thể hay khung xây dựng phát triển.
Khung đề xuất phát triển
cho đại học số
Với sứ mệnh của đại học số, nhà trường nên xóa bỏ khoảng cách với
sinh viên và mở ra kênh định hướng, tư vấn số cho sinh viên. Việc tư vấn, định hướng
có thể giúp xóa bỏ sự e ngại xấu hổ của sinh viên, đồng thời cũng mở ra mạng
lưới trao đổi bình đẳng cho nhiều sinh viên hơn. Đại học số có thể đi kèm với
các số liệu đánh giá thực của sinh viên để có các định hướng đúng, phù hợp và
hiệu quả cho sinh viên. Bên cạnh đó, một vấn đề lớn khác đó là tài chính. Thực
tế rằng để cải thiện chất lượng đào tạo, nhiều trường cũng tăng học phí cao
hơn, đây là thách thức của nhiều sinh viên. Với sứ mệnh của đại học số, sinh
viên cần tạo một kênh quản lí tài chính hiệu quả. Đối với những sinh viên có
hoàn cảnh khó khăn hoặc muốn tự túc trong vấn đề học phí, nhà trường là cầu nối
để sinh viên tiếp cận các đơn vị, ngân hàng cho vay uy tín.
Đại học số không chỉ là môi trường giảng dạy trực tiếp mà còn kết
hợp cả dạy học trực tuyến nên giảng viên cũng khó tiếp cận sinh viên hơn, khó
đánh giá khả năng học, hiểu của sinh viên, hiệu quả của bài giảng hơn. Với sứ
mệnh của đại học số, một mạng lưới hay cộng đồng thông tin dạy học trực tuyến
ra đời, không chỉ sinh viên được lựa chọn giảng viên mà giảng viên cũng có
quyền biết và quản lí học sinh trong lớp của mình, giảng viên có thể truy cập
cơ sở dữ liệu sinh viên ở mức phù hợp để lựa chọn phương thức giảng dạy, mức độ
giảng dạy hiệu quả nhất. Đây không chỉ là sự kết nối giữa trường học và giảng
viên mà còn là việc xây dựng kho tri thức chung cho quốc gia, nhân loại. Cả thư
viện số và mạng lưới thông tin dạy học trực tuyến có thể được ứng dụng sang
mảng nghiên cứu đối với giảng viên, giảng viên cũng có thể xây dựng, công bố các
nghiên cứu, bài báo trên thư viện số.
Để đáp ứng sự phát triển của đại học số với giảng viên và sinh
viên, cần thiết xây dựng một cơ sở hạ tầng là cơ sở dữ liệu, mạng internet
trong khuôn viên trường. Cùng với đó là các kênh trao đổi trực tuyến như: kênh
cố vấn sinh viên, kênh quản trị tài chính. Tất cả những điều này chỉ hoạt động
tốt khi cơ sở dữ liệu được xây dựng để quản trị hệ thống tổng thể, đủ để kết
xuất dữ liệu hiệu quả.
Qua đây có thể thấy nền tảng đại học số hiện nay, trên thế giới
cũng mới và có rất ít trường đại học phát triển nền tảng đại học số riêng, cũng
như ở Việt Nam thì chưa có mô hình nền tảng đại học số thành công. Tuy nhiên,
đây là một trong 35 nền tảng đã được Bộ Thông tin và Truyền thông thúc đẩy
trong Chương trình thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục
vụ chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số hay chương
trình phát triển nền tảng số quốc gia tại quyết định số 186/QĐ-BTTTT ngày
11/02/2022. Đồng thời việc phát triển nền tảng đại học số cũng đã được cụ thể
hóa thành nhiệm vụ thí điểm mô hình đại học số tại một số trường đại học theo
quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số
trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030".
Mong muốn thông qua bài viết này, Việt Nam sẽ có nhiều hơn mô hình
hoạt động thành công trong việc triển khai nền tảng đại học số. Từ đó, là bàn
đạp, nguồn động lực để thúc đẩy giáo dục Việt Nam, thúc đẩy nguồn nhân lực số
cho Việt.